Ghi lại lịch sử biển đảo bằng thơ ca
Góp thêm vào những trang thơ hào hùng về Trường Sa, PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ, Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam ghi dấu ấn với 3 bài thơ đặc sắc. Đó là “Trường Sa” (1994), “Thao thức Trường Sa” (2012) và “Tổ quốc” (2015).
Chia sẻ với VTC News, nhà thơ Nguyễn Thế Kỷ cho biết, từng vần thơ là nỗi lòng của tác giả trước những người lính canh giữ hòa bình nơi đảo xa, đồng thời nói lên lòng căm giận trước mưu đồ hèn hạ của những kẻ mang mộng bá quyền trên vùng biển thiêng liêng của Tổ quốc.
Bài thơ “Trường Sa” là tác phẩm ra đời sớm nhất khi tác giả tới thăm quần đảo Trường Sa 8 năm sau sự kiện Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đảo Gạc Ma, thảm sát các chiến sỹ Việt Nam. Và thăm nơi 64 chiến sỹ Hải quân Nhân dân Việt Nam ngã xuống vì biển đảo quê hương.

PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ, Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam. (Ảnh: Minh Tuấn)
Bài thơ “Trường Sa” là tác phẩm ra đời sớm nhất khi tác giả tới thăm quần đảo Trường Sa 8 năm sau sự kiện Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đảo Gạc Ma, thảm sát các chiến sỹ Việt Nam. Và thăm nơi 64 chiến sỹ Hải quân Nhân dân Việt Nam ngã xuống vì biển đảo quê hương.
"Biển xanh ôm ấp trời xanh
Rồng Tiên thuở ấy sinh thành Trường Sa
Trùng khơi nào có ngái xa
Long lanh hạt cát đã là quê hương..."
Theo nhà thơ Nguyễn Thế Kỷ, Trường Sa hay Hoàng Sa là những cái tên mà khi nhắc lên trở thành điều gì đó thiêng liêng xúc động tới tận tâm can. Đó là máu thịt của đất nước. Từ suy nghĩ đó, tác giả nghĩ rằng cần phải có một bài thơ viết về Trường Sa.
"Ở đây chẳng có gì riêng
Lá thư chung đọc nỗi niềm chung lo
Đêm vui chung một câu hò
Nhớ thương chung một cánh cò hoàng hôn"
Tác giả kể lại rằng, tất cả các chiến sỹ ở nhiều vùng miền tới Trường Sa vì đất nước, vì mục tiêu bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ Quốc. Người lính Việt Nam luôn ưa chuộng, khát vọng hòa bình.
“Chỉ khi kẻ thù buộc chúng ta cầm súng, chúng ta mới cầm súng chứ người Việt Nam đều có khát vọng hòa bình”, PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ nói.
Kết thúc bài thơ “Trường Sa” là giấc mơ về trở với mảnh ruộng quê hương của những người lính ra đi từ thôn quê, xóm, bản để tới Trường Sa giữ biển trời của tổ quốc.
Ước mơ lớn nhất của người lính đảo là trở về với mảnh ruộng quê hương một cách hòa bình. Nhưng kể cả trong giấc mơ trở về của họ luôn có Trường Sa, một phần máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc.
"Đêm qua trong giấc chiêm bao
Có anh lính trẻ giục trâu ra đồng
Luống thao thiết bên sông
Và chung sóng trắng điệp trùng Trường Sa"
Thương nhớ Trường Sa
Trong khi bài thơ “Trường Sa” là áng thơ khắc họa những người lính ở đầu sóng ngọn gió, thì bài “Thao thức Trường Sa” của PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ là tâm sự “rất thật” của tác giả trước đêm con tàu nhỏ neo về đất liền một ngày chớm Hè năm 2012.
“Trường Sa ơi, mai tàu rời bến
Ta lại về phố thị thân thương
Vòng tay ấm bao bữa cơm sum họp
Và riêng, chung bao chuyện vui buồn”

Trường Sa là một phần không thể tách rời của đất nước Việt Nam.
Trong “Thao thức Trường Sa”, như lời tác giả chia sẻ, những người trẻ tuổi, sống dưới thời bình, họ dù non trẻ, dù “tuổi đôi mươi”, “mắt trong vắt chưa một lần hẹn hò” hay “đêm mơ còn nũng nịu gọi 'Mẹ ơi'”, nhưng luôn tiếp nối truyền thông anh dũng, sẵn sàng ra chấn giữ biên cương bảo vệ Tổ quốc.
Trong thơ PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ thường xuất hiện hình ảnh cơn bão. Ở đây, tác giả muốn nói tới không chỉ là bão thiên nhiên, mà là “cơn bão” từ kẻ láng giềng tham lam, tham vọng độc chiếm Biển Đông với yêu sách đường lưỡi bò phi lý.
Họ mang dòng máu bá quyền nước lớn đi xâm lược Hoàng Sa và giờ lăm le đánh chiếm Trường Sa.
Trong thơ tác giả luôn khẳng định rằng, đất nước chúng ta là đất nước ưa chuộng hòa bình, nhưng nếu “kẻ thù tới, đâu đâu cũng là bãi cọc Bạch Đằng”, chọc thủng âm mưu xâm chiếm bờ cõi nước nhà.
Nhưng cùng với sự ngoan cường đó, rất nhiều thế hệ cha ông phải ngã xuống, lấy máu xương làm nên độc lập tự do.
Trong bài thơ “Tổ quốc”, tác giả kể về “nỗi đau ở lại với những người mẹ, người vợ, người em mất đi chồng, cha, anh, cháu”.
“Xương máu của những người đã khuất còn hơn cả dãy Trường Sơn, máu đó và nước mắt đó hơn cả nước của Hồng Hà và Cửu Long”, PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ phân tích.
“Những cuộc chia ly, những vành khăn trắng
Chẳng nguôi ngoai dù xác giặc chất chồng
Chẳng thể dịu nỗi Rạch Gầm, Xoài Mút
Hiền Lương, Khâm Thiên, Sơn Mỹ, Thổ Chu…”
Theo PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ, xác giặc dù có xếp chồng cũng không thể là nguôi ngoai mất mát, đau thương mà người dân phải trải qua. Và ít có một dân tộc nào mà gần như đi đâu cũng có nghĩa trang. Trên khắp đất nước dựng hàng vạn nghĩa trang để khắc ghi sự hy sinh của những người đã khuất từ đời này sang người khác và ghi tội ác của kẻ thù.
Thông điệp tình yêu biển đảo
PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ cho rằng, vị trí chiến lược của Việt Nam khiến lịch sử đặt ra cho chúng ta những thách thức lớn. Bởi các nước ôm mộng bá quyền khi chiếm được chúng ta sẽ tạo ra bàn đạp lớn để chiếm được Đông Nam Á.
Do đó trong lịch sử chúng ta đã chứng kiến hàng trăm, hàng chục cuộc chiến tranh lớn nhỏ mà rất nhiều cuộc chiến đi từ phía biển.
“Nhưng cũng như Lý Thường Kiệt từng nói “Sông núi nước Nam vua Nam ở. Rành rành định phận tại sách trời. Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm. Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”- Đây là điều hoàn toàn chính xác, từ trước tới nay bất kể là kẻ thù từ phương Đông, hay phương Tây”, PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ nhấn mạnh.
Tác giả cũng cho biết thêm thông qua những áng thơ của mình, ông muốn góp tiếng nói của lực lượng báo chí, của văn nghệ sỹ để “khẳng định niềm tự hào của người con Việt Nam với dân tộc mình”, đồng thời bày tỏ sự tin tưởng với các chiến sỹ đang ngày đêm canh giữ vùng biển Tổ quốc, nhất là Trường Sa.
“Tôi muốn truyền đến cho thế hệ trẻ, hôm nay và mai sau thông điệp về tình yêu Tổ quốc, với biển đảo, với Hoàng Sa và Trường Sa. Những vần thơ của tôi khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bất chấp việc Trung Quốc thành lập cái mà họ gọi là Tây Sa và Nam Sa để quản lý Hoàng Sa, Trường Sa.
Đây là một hành động phi pháp, vi phạm luật pháp quốc tế, nhất là Công ước về Luật biển năm 1982 của LHQ, vi phạm thỏa Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và cũng ảnh hưởng tới quá trình thiết lập Bộ Quy tắc về ứng xử của các bên trên Biển Đông giữa các nước ASEAN với Trung Quốc (COC)”, PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ chia sẻ.